Tang phục, để tang (trở)
1. Trang phục đại tang, để tang (trở) cha, mẹ 3 năm. Ngày nay có nơi chỉ còn để tang cha, mẹ 2 năm. Trảm thôi có
nghĩa là may áo không cắt mà dùng phương pháp chặt vải cho các mép vải xơ ra
một cách tiều tụy, tỏ ý đau đớn. Áo trảm thôi dài, rộng, tay thụng may bằng thứ
xô rất thô, xấu, không viền gấu, không cài khuy mà chỉ buộc dải. Ở lưng áo có
may thêm một miếng vải gọi là phụ bản. Hai vai có hai miếng vải gọi là thích.
Con trai, mặc áo trảm thôi còn
phải buộc một sợi dây gai ngang lưng và đội một loại mũ gọi là mũ rơm. Mũ rơm
hình vành bánh xe, tết bằng rơm hay lá chuối khô, ở trên có chằng hai dải vải
xô hình chữ thập, có một quai cũng bằng vải xô để đeo dưới cằm.
Tục chống gậy. Cha chết
thì con chống gậy tre. Phải chọn thứ tre màu xẫm đen (màu tang tóc). Sở dĩ,
chọn loại tre này vì cây tre bốn mùa không đổi mầu, ví như tình cảm thương đau
của người con không bao giờ giảm sút. Gậy tre để tròn, tượng trưng cho trời, ý
coi cha như trời cao. Mẹ mất thì con chống gậy bằng gỗ cây vông. Cây vông còn
tên là Đồng. Đồng nghĩa là cùng, ý rằng lòng mẹ vẫn cùng hợp với cha. Gậy vông
được đẽo phần trên tròn, phần dưới vuông. Hình vuông tượng trưng cho đất, ý coi
mẹ như đất dày. Chống gậy để tỏ ra là người con có hiếu, vì quá buồn thương, khóc
lóc đến nỗi ốm yếu, không đủ sức đi đứng như bình thường.
Trong đám tang mỗi người
con trai đội một mũ rơm, chống một gậy. Vắng người nào, mũ và gậy phải được
treo ở cạnh bàn thờ hay đặt theo áo quan để mọi người cùng biết. Con gái, con
dâu để trở đại tang cũng mặc xô gai nhưng không chống gậy, không đội mũ rơm mà
xõa tóc, đội mũ mấn (lúp). Gọi là mũ nhưng chỉ là miếng vải xô chiều ngang
khoảng 30 cm. Chiều dài khoảng hơn 1m gập đôi lại nhưng để hai đầu vải so le,
rồi khâu một cạnh, chùm lên đầu thành một hình chóp. Đặc biệt, con trai, con
gái và vợ người chết còn dùng một dải xô trắng chiều ngang khoảng 30 cm, dài
hơn 1m, theo chiều dài gập lại vài lần để hình thành một chiếc khăn có chiều
ngang khoảng 5 cm, chít quanh đầu, buộc múi ở phía sau, bỏ thõng hai đầu khăn
xuống lưng, gọi là khăn ngang.
Ti thôi là tang phục không trọng
bằng trảm thôi. Ti thôi có trường hợp để tang 3 năm, có trường hợp để tang 1
năm, 5 tháng hoặc 3 tháng. Ti là bằng. Gấu áo ti thôi không để xổ mà có viền
qua loa. Áp dụng cho những trường hợp như con để tang mẹ ghẻ, mẹ nuôi (cũng có khi dùng trảm
thôi) 3 năm. Chồng để tang vợ, con rể
để tang bố mẹ vợ 1 năm. Cháu để tang ông
bà nội, con để tang cha dượng, anh em ruột đều để tang 1 năm.
1 năm. Trường hợp chị em dâu, chị em ruột đã
lấy chồng, anh em chị em con chú con bác để tang 9 tháng. Để tang cụ ông cụ bà
nội, ông cụ bà ngoại, anh em chị em cùng
mẹ khác cha 5 tháng. Trường hợp con không ở với cha dượng, chồng để tang vợ lẽ đều để tang ti thôi 3 tháng v.v...
2. Cơ phục cũng như ti thôi nhưng áp dụng
trong những trường hợp như để tang bác
trai, bác gái, chú, thím, cô ruột (chưa lấy chồng) đều 1 năm.
3. Đại công là trang phục dùng thứ vải to
sợi, còn thô, trong những trường hợp như cô ruột đã lấy chồng, anh em chị em
con chú, con bác, đều 9 tháng.
4. Tiểu công là trang phục dùng thứ vải
nhỏ sợi đã làm kỹ trong những trường hợp như cháu để trở ông bác, bà bác, ông
chú, bà thím, bà cô ruột (chưa lấy chồng), bác trai bác gái, chú thím, cô họ
(chưa lấy chồng) đều 5 tháng v.v...
5. Ti ma là trang phục có thể dùng vải
nhỏ sợi, mịn, trong những trường hợp như để trở ông bà họ, vợ lẽ cha, anh em
năm đời đều 3 tháng v.v…
Ngoài ra còn nhiều qui
định về để trở đối với hàng con, hàng cháu, họ nội, họ ngoại, họ xa, họ gần,
thày dạy học, bè bạn... rất phức tạp.
Đối với người chết cũng có
trang phục như khăn chít đầu (bức cân), khăn phủ mặt (khăn minh mục), bao tay
(các thủ bạch), áo thâm, áo trắng, quần trắng, thắt lưng, bít tất, giày... Áo
phải cắt hết khuy, mặc lẻ, không nên mặc chẵn. Trước kia, những người để tang
đều mặc quần áo tang trắng nhưng về sau, trừ những người để trở đại tang còn
chỉ quấn khăn là chính. Nam
quấn khăn vải trắng rộng bản, nữ vấn khăn trắng xoắn lộn với tóc. Hàng chắt,
khăn màu vàng, hàng chút chít khăn màu đỏ. Đi đưa ma, xưa thường phải đi chân
đất, nhà giàu ở thành thị sau bỏ lệ ấy mà đi dép tết bằng cói.
Sau ngày lễ tang, những
người thân vẫn còn chít khăn ngang cho tới 100 ngày (có người theo phong tục
phương Tây, dùng vải đen may khăn ấy). Áo quần để xổ gấu. Sống áo dài để hai
nẹp máy ra ngoài (như mặc áo trái). Đội mũ cát hay mũ phớt, phải quấn khăn
trắng quanh mũ hoặc may một khoanh băng đen (rộng khoảng 4 cm) có thừa ra hai
đuôi ngắn về phía sau, lồng vào mũ.
Từ năm 1945 trở lại đây, trang phục lễ tang đơn
giản nhiều. Ví dụ, dùng áo xô nhưng bỏ hai tay áo đi. Đưa đám, đi giày dép bình
thường. Nhiều người không đội mũ rơm, không chống gậy nữa. Ngày thường để trở
(tang) bằng cách dùng miếng vải đen rộng chừng 8 cm máy thành nhiều nếp đeo
quanh cánh tay. Có người đính ở trước ngực một miếng vải đen nhỏ. Có gia đình,
trong đám tang vẫn mặc bình thường và chỉ để tang bằng cách chít khăn. Những
người thân thích nhất với người chết (như vợ với chồng, con với cha, mẹ...)
chít khăn xô buông hai dải phía sau. Họ hàng chít khăn vải trắng quanh đầu. Bè
bạn đeo băng đen ở cánh tay hay đính miếng vải đen trước ngực.
Xét về nhiều mặt, để tang
như vậy là thuận hợp, vừa giản dị, tiết kiệm, vừa không cắt đứt truyền thống
dân tộc mà vẫn không hề có gì làm giảm bớt tình cảm thương tiếc đối với người
quá cố. Điều quan trọng là ở ý thức, thái độ của mọi người trong đám tang. Ngoài
việc không nên nói chuyện ồn ào, cười đùa cợt nhả, những người trong nhà tang
và cả những người đến viếng, đi đưa tang không nên ăn mặc lòe loẹt (như mặc áo
dài hoa to sặc sỡ, hoặc đeo cravat đỏ...), hoặc trang điểm cầu kỳ, diêm dúa.
Nhìn lại, trang phục lễ tang
Việt Nam
đã có từ lâu đời. Xưa nay, khi phát tang thường là dùng màu trắng may bằng các
loại vải thô, rẻ tiền như xô, gai... Khi may, khi mặc, còn cố tình làm cho xấu
xí đi để tỏ lòng thương tiếc đối với người quá cố, để chứng minh bản thân người
sống đau buồn đến mức không muốn hưởng thụ gì là vui, sướng, đẹp... Thực chất
tình cảm có thể như vậy. Nhưng rồi cũng không ít trường hợp chỉ là để cho người
khác khỏi chê cười, nếu không phải là bày vẽ để thực hiện những ý đồ riêng biệt
(như lừa dối mọi người). Nếu đi quá, sẽ là những hiện tượng hình thức chủ
nghĩa, phản vệ sinh (thời xưa khi đưa ma phải ăn mặc xộc xệch, nhàu nát, đi
chân đất, lăn đường hoặc chống gậy đi giật lùi, tùy mối quan hệ máu mủ với
người chết. Sau đó, người để tang còn không chải tóc không tắm giặt, không xem
hát, nghe nhạc trong nhiều ngày). Quan điểm tư tưởng phong kiến cũng được biểu
hiện rõ ràng (như quan điểm trọng nam khinh nữ).
Lược bỏ những hình thức
tiêu cực, việc để tang rất có ý nghĩa trong mối quan hệ giữa người sống với
người chết, giữa những người sống với nhau. Trang phục lễ tang nhắc nhở người
sống biểu lộ tình thương yêu và lòng biết ơn đối với người đã khuất. Nó khuyên
những người đang sống cần cống hiến cho xã hội như thế nào, cần đối xử với nhau
như thế nào để khi nhắm mắt có thể ngậm cười trong niềm thương tiếc của mọi
người. Và nếu mọi người có điều kiện tìm hiểu về những nguyên nhân nào đó đã
sản sinh ra những tục lệ để tang, chắc rằng tác dụng giáo dục con người càng
thêm sâu sắc.
Trang phục lễ tang đơn
giản, nghiêm túc mang được những ý nghĩa sâu sắc cũng là một mặt của đời sống
văn hóa mà mỗi dân tộc có truyền thống văn minh không thể thiếu quan tâm.
Antôn Hồng sưu tầm
0 comments:
Post a Comment